Theo PGS, TS. Nguyễn Thường Lạng, công nghiệp hóa ở Việt Nam theo cách tiếp cận mô hình chính sách 3 phiên bản sẽ được giải mã đầy đủ thực chất, thành công và hạn chế, cơ hội và thách thức trong đóng góp vào phát triển kinh tế.
Tiếp cận công nghiệp hóa
Theo PGS, TS. Nguyễn Thường Lạng, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, công nghiệp hóa ở Việt Nam theo cách tiếp cận mô hình chính sách 3 phiên bản sẽ được giải mã đầy đủ thực chất, thành công và hạn chế, cơ hội và thách thức trong đóng góp vào phát triển kinh tế. Cách tiếp cận này sẽ tập trung nhiều hơn vào xác định vấn đề cần giải quyết và phương thức huy động nguồn lực phát triển một cách tối ưu.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “công nghiệp hóa” được hiểu nguyên nghĩa cũng như được hiểu gắn với hiện đại hóa bao gồm “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Nội hàm được thay đổi qua các giai đoạn, gắn với điều kiện phát triển đất nước và bối cảnh quốc tế. Tuy nhiên, phạm trù này vẫn có những nội dung tương tự ở các nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó là một quá trình lâu dài (Ban Chấp hành Trung ương, 1994).
Công nghiệp hóa ở Việt Nam diễn ra trong 70 năm được coi là một quá trình thống nhất. Chính sách điều tiết công nghiệp hóa hoàn toàn nhất quán, phù hợp với bản chất và tính quy luật của công nghiệp hóa. Căn cứ vào điều kiện phát triển công nghiệp, đóng góp của công nghiệp vào tăng trưởng và phát triển, mức độ đóng góp của công nghiệp vào độ mở kinh tế, các chính sách có thể điều chỉnh và hoàn thiện hình thành các phiên bản. Các phiên bản khác nhau của chính sách vẫn dựa trên nền tảng mục tiêu công nghiệp hóa gần như được duy trì ổn định trong suốt 70 năm.
Mô hình chính sách
Mô hình chính sách 3 phiên bản gắn với 3 giai đoạn không đều về thời gian gồm giai đoạn đầu 15 năm, giai đoạn tiếp theo 30 năm và giai đoạn sau đó 25 năm.
– Giai đoạn 1976 – 1991 (15 năm đầu): Phiên bản kiểm định mức chống chịu của chính sách công nghiệp hóa. Từ năm 1976, Việt Nam tiến hành công cuộc công nghiệp hóa nhằm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Việc tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng là cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật và cách mạng tư tưởng – văn hóa trong đó cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt. Đây là giai đoạn chống chịu của nền kinh tế trước các điều kiện ngặt nghèo trong và ngoài nước gồm các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, cải tạo kinh tế trong nước, bị bao vây, cấm vận, và sự thử nghiệm tất cả các loại công cụ của cơ chế kế hoạch hóa tập trung đến mức cao nhất – tự phủ định để đổi mới nền kinh tế (Văn kiện Đại hội IV, V, VI). Năm 1982, công nghiệp hóa Việt Nam từ ưu tiên phát triển công nghiệp năng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ chuyển sang thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn là sản xuất lượng lực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Năm 1991 đánh dấu sự tan rã của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Điều này làm cho mục tiêu triển khai 200 dự án đầu tư lớn của Việt Nam với sự hỗ trợ của Liên Xô không thực hiện được. Sự kiện Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã đã mở đầu thời kỳ toàn cầu hóa. Mối quan hệ giữa đóng cửa và mở cửa trong công nghiệp hóa gần như theo tỷ lệ 80/20, trong đó, 80% mối quan tâm tập trung vào các vấn đề trong nước, chuẩn bị kịch bản kết thúc cơ chế kế hoạch hóa tập trung và 20% tập trung vào phần kết nối quốc tế, thậm chí phần kết nối này còn ít hơn do chủ yếu kết nối với Liên xô và các nước trong khu vực 1 là các nước xã hội chủ nghĩa với phạm vi khá hẹp, hạn chế kết nối với khu vực khác.
– Giai đoạn 1992 – 2021 (30 năm tiếp theo): Phiên bản tiếp cận quốc tế chủ động, tích cực, sâu rộng của chính sách công nghiệp hóa cùng với việc củng cố sức chống chịu và tăng cường tích lũy nội bộ phục vụ công nghiệp hóa. Đây là giai đoạn Việt Nam sẵn sàng là bạn với các nước trên thế giới (Văn kiện Đại hội VII). Sau khi bình thường hóa với tất cả các nước, tình trạng cấm vận bị loại bỏ, nền kinh tế mở cửa sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Tính đến hết tháng 10-2021, Việt Nam đã và đang đàm phán ký kết 17 hiệp định thương mại tự do, trong đó có 15 hiệp định thương mại tự do đã ký kết và 2 hiệp định thương mại tự do đang đàm phán . Việt Nam có quan hệ thương mại với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ và quan hệ đầu tư với 120 quốc gia và vùng lãnh thổ. Phần tham gia của nền kinh tế vào nền kinh tế thế giới rất lớn như xuất khẩu của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt trên 70%, độ mở nền kinh tế đạt gần 200%. Việc tích lũy nội bộ đạt ở mức trung bình và Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp từ năm 2010 (Văn kiện Đại hội X). Mục tiêu đến năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại được đặt ra từ năm 1994 chưa hoàn thành như mong đợi. Mối quan tâm những vấn đề trong nước và phần kết nối quốc tế theo tỷ lệ 50/50 trong đó 50% tập trung vào kết nối quốc tế và 50% tập trung vào vấn đề trong nước. Quy mô mở rộng kết nối quốc tế tăng nhanh để tương xứng với quy mô của nền kinh tế ở trạng thái mở cửa.
– Giai đoạn 2022 – 2045 (24 năm tiếp theo): Phiên bản công nghiệp hóa thời đại số hóa, cân bằng giữa trong nước và kết nối quốc tế theo tỷ lệ 20/80. Nền tảng số, doanh nghiệp số, thương mại số, ngân hàng số, công dân số… sẽ được phát triển bao trùm và hướng mạnh ra thị trường thế giới đế khai thác lợi thế theo quy mô. Đây là giai đoạn chuyển hóa các tác động quốc tế vào tác động trong nước một cách hiệu quả để tăng tính độc lập của chính sách thông qua nền tảng và các ứng dụng số. Sức chống chịu của nền kinh tế tăng mạnh do sự trưởng thành của các ngành công nghiệp trong nước nhất là các ngành công nghệ cao. Phiên bản này có 4 phiên bản cục bộ trong 4 giai đoạn với mỗi giai đoạn 6 năm.
- Giai đoạn 1 (2022 – 2028) là giai đoạn chuẩn bị bao gồm tất cả mọi sự chuẩn bị cho một quá trình công nghiệp hóa số như thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo số với số lượng doanh nghiệp số được thành lập cao nhất, thành lập và vận hành chính phủ số và kết nối số quốc tế, văn hóa số, thị trường số, công dân số và giao dịch số được tổ chức khoa học.
- Giai đoạn 2 (2029 – 2034) là giai đoạn vượt chướng ngại vật và rào cản thông qua cải thiện triệt để thể chế, quy định, kết cấu hạ tầng, môi trường vận hành, loại bỏ mọi loại rào cản sự vận hành của doanh nghiệp, nền kinh tế và các tác nhân khác. Môi trường vận hành các giao dịch sáng tạo giá trị bảo đảm tính minh bạch cao nhất, hỗ trợ sự phát triển công nghệ và công nghiệp số.
- Giai đoạn 3 (2035 – 2040) là giai đoạn tăng tốc, huy động mọi nguồn lực và tăng trưởng gia tốc do tích lũy đầy đủ và chuẩn bị cẩn thận các điều kiện của công nghiệp hóa dựa trên nền tảng số. Các doanh nghiệp tăng quy mô, mạng lưới, năng lực cạnh tranh, doanh thu, lợi nhuận và uy tín thị trường.
- Giai đoạn 4 (2041 – 2045) là giai đoạn hướng tới thu nhập cao với sự hoàn thiện toàn diện cơ sở vật chất và chính sách của nước công nghiệp, thu nhập tăng cao đáng kể, đời sống vật chất và tinh thần phong phú, con người hoàn thiện toàn diện.
Giả sử tổng số mối quan tâm với các vấn đề trong nước và quốc tế trong công nghiệp hóa là 100%. Với phiên bản 1, tỷ lệ này là 20/80. Với phiên bản 2, tỷ lệ này là 80/201 và phiên bản 3 tỷ lệ này là 50/50. Các mức độ quan tâm này do tác giả giả định dựa trên quan sát. Đây là mô hình chính sách công nghiệp hóa 3 phiên bản nằm trong tiến trình công nghiệp hóa 70 năm thống nhất.
(Nguồn: vietnamnet.vn)